Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

Tượng Phật 'sắc dục' dưới góc nhìn của GS Mật tông

Một vị giáo sư người Đức chuyên nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng đàm đạo với PV về bức tượng Phật “lạ” gây dư luận tại Thái Lan, Việt Nam trong thời kì qua và nguồn cội của nó.

Trước những dư luận về bức tượng Phật "lạ" mang nhiều màu sắc sắc dục gây tranh biện trong thời kì qua, phóng viên đã đàm đạo qua email với giáo sư nghiên cứu đạo chuyên về Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ thuộc Đại học Marburg (Đức), bà Adelheid Herrmann-Pfandt, về bức tượng này.

Vị nữ giáo sư, tấn sĩ có 35 năm nghiên cứu và có nhiều công trình về Mật tông nhận xét bức tượng trong ảnh là hình tượng “yab-yum” (cha - mẹ) phổ thông trong tông phái Mật tông của Phật giáo song bà cũng chỉ ra những nét dị biệt khó thấy gợi ý tác giả của bức tượng có thể là người phương Tây.

* Xin giáo sư giảng giải về hình tượng “yab-yum” trong Mật tông?

- Giáo sư Adelheid Herrmann-Pfandt: Yab-yum là từ Tây Tạng và có nghĩa đơn giản là cha - mẹ. Đây là từ thường dùng trình bày Đức Phật và các vị Phật khác trong phong thái thống nhất. Tiếng Phạn của từ yab-yum là yuganaddha tức thị “gắn kết”, yuga có liên tưởng với yoga, từ tiếng Phạn chỉ “cái ách” và là cách tu tập ý thức nức tiếng của Ấn Độ, vốn cũng được đạo Phật dùng, với mục đích đoàn luyện tâm não như một cái ách điều khiển bò, ngựa kéo cày hoặc kéo xe.

Do đó, từ yuganaddha làm minh bạch thực tiễn rằng yab-yum biểu trưng cho một cách tu tập đạo KHÔNG hướng đến mục đích phóng đãng tính dục hoặc các kiểu rưa rứa mà bao gồm một phương pháp hành thiền đặc biệt.

Phương pháp này khác với các hình thức khác của cấp độ yoga bởi nó dùng các năng lượng quan yếu vượt ra ngoài bản năng giới tính.

Nghe có vẻ vô lý khi một hình tượng trình bày phong thái sắc dục đại diện cho một cách tu tập đạo nhằm đích đoàn luyện tâm não. Tuy nhiên, có hai lý do khiến hình tượng này được chọn:

1. Yab-yum không có tức thị tu tập một loại hình đặc biệt của bản năng tính dục của chính bạn như một người thực hiện song là tạo ra việc dùng có kiểm soát các năng lượng mà - trong cách không kiểm soát - vốn đã có tác dụng với hoạt động tính dục thường ngày. tức thị nó giống như lấy nước từ một thác nước và dẫn nó đi qua một ống nước để dùng trong nhà hoặc cấp nước cho các cánh đồng.

Tuy nhiên, điều này không có tức thị cách thực hiện Kim Cang thừa thường được tiến hành với một đối tác, nó đốn là cách tu tập một mình. hiện tại, hồ hết mọi người trên thế giới tu tập hình thức thiền này là các nhà sư hoặc sư ni, những người được cho là không phá vỡ sắc giới, một số người tu tập là người trong gia đình và ngay cả những người này cũng không giao hội vào bản năng tính dục hơn những người khác.

2. Một trong những lý do quan yếu cho việc dùng biểu trưng sắc dục là thiền định Kim Cang thừa, giống mọi hình thức khác đạo bí truyền trên thế giới, hướng đến sự trải nghiệm bí mật bên trong của sự thống nhất, của sự nhất thể. Các đạo hữu thần gọi đây là sự thống nhất giữa thần linh và con người, những đạo khác, như Ấn Độ giáo là sự thống nhất giữa vong linh cá nhân chủ nghĩa (atman) với vong linh vũ trụ (brahman) trong khi Phật giáo Kim Cang thừa nói về sự thống nhất giữa trí não và hư không hoặc trí não và từ bi, tỉ dụ như góc cạnh tiêu cực và chủ động của việc tu tập đạo.

Bởi hoạt động tính dục rõ ràng mang lại hình thức phi đạo mãnh liệt nhất của sự thống nhất mà con người có thể trải nghiệm, “những người khai sinh” Phật giáo Kim Cang thừa thấy rằng đây là biểu trưng thích thống nhất về những gì xảy ra trong sự thống nhất bí mật của ý thức. Đây có nhẽ là lý do sâu xa nhất cho việc phát triển ý tưởng và tạo ra hình tượng Đức Phật trong phong thái tính dục.

* Liệu bức tượng có thể được chấp thuận trong Phật giáo?

- Giáo sư Adelheid Herrmann-Pfandt: Điều này phụ thuộc vào việc bạn theo tông phái Phật giáo nào. Khi Phật giáo Kim Cang thừa bắt đầu dùng biểu trưng sắc dục ở Ấn Độ, nhiều phật tử cũng phản ứng giống với cách những đứa ở nước bạn tuồng như đã phản ứng với bức tượng đó.

Tuy nhiên, hãy nhìn vào người Tây Tạng, những người đã trở nên người thừa kế chủ đạo của Phật giáo Kim Cang thừa Ấn Độ và của những cách tu tập đặc biệt đó, sau khi Phật giáo suy vong ở Ấn Độ vào khoảng năm 1.200 sau Công nguyên: thực tiễn rằng Tây Tạng là khu vực bị đàn án độc nhất vô nhị trên thế giới không thành lập một tổ chức khủng bố, theo quan điểm của tôi, có một lý do và đó là đạo đức Phật giáo, vốn dạy họ cách mô tả lòng trắc ẩn ngay cả với những kẻ làm việc ác và cản ngăn họ giết người khác cực... Xét đến việc này, bạn có thể thấy hình thức Phật giáo hướng đến những hình ảnh sắc dục của Đức Phật không nhất quyết là hình thức suy đồi.

Có một tuổi ngắn trong Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ 10 và 11, khi một số đứa ở Tây Tạng tin rằng việc tu tập với hình tượng sắc dục sẽ cho phép họ cưng chiều bản năng tính dục một cách cực và tham dự vào mọi hình thức truy hoan suy đồi. Tuy nhiên, một vị quốc vương sùng đạo thống trị phía tây Tây Tạng vào lúc đó đã mời đại sư Atisha (A Đề Sa, 982 - 1.054), một đại sư Phật học nức danh người Ấn Độ, giúp ông giải quyết vấn đề này.

Atisha đến và dạy các phật tử Tây Tạng cách hiểu những hình ảnh đó như là biểu trưng của những gì xảy ra trong việc hành thiền Kim Cang thừa của bản thân và biểu trưng này không xúi giục các nhà sư hoặc sư ni phá vỡ sắc giới mà mang lại phương pháp dùng năng lượng đồ sộ ẩn giấu trong năng lượng tính dục (theo thiên nhiên vốn cũng mạnh mẽ ở các nhà sư và sư ni như bất kỳ ai) để đạt đến mục đích giác ngộ nhanh hơn.

Từ đó trở đi, Phật giáo Kim Cang thừa ở Tây Tạng đẵn tu tập trong các ngôi chùa và am, và thậm chí những người tu tập yoga ở Tây Tạng, vốn không bị cấm đoán sắc dục, cũng thường sống ẩn dật tại những ngọn núi.

hẳn nhiên, trong lịch sử Phật giáo Kim Cang thừa, có một số người tu tập nghiêm trang đã trải nghiệm cách tu tập với một đối tác thật sự, ở Ấn Độ và Nepal cũng như tại Tây Tạng hay bất kỳ nơi đâu. Chỉ cần bạn không phải là người tuân theo sắc giới, Phật giáo Kim Cang thừa xem điều này là có thể, ít ra về lý thuyết, để đạt được kết quả ý thức cùng chừng độ hoặc thậm chí tốt hơn bằng cách tập chung một cặp.

Đó không phải là trải nghiệm một mối quan hệ nhất thiết về sự tương đồng giữa tình ái lãng mạn và đạo, giữa sự bí mật và thống nhất tính dục mà theo một cách nào đó bao gồm trong tri thức thiêng của mọi đạo.

Song theo các đại sư Phật giáo Tây Tạng nói, sự hiểm nguy của việc ngã từ cảm hứng đạo của một người tu tập Kim Cang thừa xuống bản năng thèm khát thỏa mãn sắc dục bẩm sinh của mọi người trong chúng ta là quá lớn với hồ hết mọi người. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Kim Cang thừa hơn 35 năm trước, khi còn là một sinh viên trẻ, tôi sớm có cảm giác rằng vì sự khó khăn đặc biệt của việc phát triển định tính để tránh cú ngã này, việc tu tập Kim Cang thừa theo cặp thực tiễn có nhẽ trở nên hình thức cao nhất có thể mường tượng về sự khổ hạnh.

Do đó, ngay cả khi thời nay có một số ít người tu tập Kim Cang thừa có đeo đuổi việc tu tập hai người, đây là lề thói không được khuyến khích bởi các đại sư Phật giáo Tây Tạng hàng đầu.

Cách đây vài năm, khi Đạt Lai Lạt Ma hiện giờ (người, với nhân cách là phật tử Tây Tạng, tu tập hàng ngày với các hình ảnh giống như hình ảnh bạn gửi cho tôi) được hỏi liệu có đại sư Tây Tạng nào đủ tiêu chuẩn để giảng dạy về cách tu tập Kim Cang thừa hai người, ông chỉ đơn giản nói: "Không!”.

* Vậy các hình ảnh đó xuất xứ từ đâu, thưa giáo sư?

- Giáo sư Adelheid Herrmann-Pfandt: Xuất xứ của những hình ảnh đó là Phật Giáo Kim Cang thừa Ấn Độ. Những hình ảnh loại này ở Ấn Độ có từ khoảng thế kỷ thứ 11 song ý tưởng về nó ít ra có từ thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8. Khi Phật giáo Kim Cang thừa nhập khẩu vào Tây Tạng từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9 và một lần nữa vào thế kỷ thứ 10 và 12, hình tượng này đã được mang theo. Nó được phát triển hoàn hảo trong nhiều thế kỷ ở Tây Tạng và gần như có mặt tại khắp nơi trên các bích họa và tượng tại các đền chùa Tây Tạng.

Bức ảnh bạn gửi cho tôi dứt khoát là Phật giáo Tây Tạng và có nhẽ được tạc ở một nước châu Á có sự ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Tây Tạng (Nepal, Bhutan, vùng Himalaya ở Ấn Độ) hoặc ở phương Tây. hiện tại, bạn có thể tìm thấy một số phật tử phương Tây học cách vẽ và tạc những bức tượng nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng kinh điển.

Tuy nhiên, có ba điều khác lạ về bức tượng đồng này: 1) Người nữ có vẻ như lớn hơn so với các hình ảnh Tây Tạng mà tôi dùng trong các nghiên cứu của mình. 2) hình trạng ngực trái của người nữ khá dị kì, thường nhật bạn sẽ thấy nó nhỏ hơn và ít nhọn hơn. 3) phong thái kiết già của vị Phật cũng khá thất thường, thường nhật các ngón cái của nhân vật này chụm lại trong các hình ảnh kiết già của Phật giáo Tây Tạng.

Ba chi tiết đó có thể gợi ý rằng nhân vật không phải được tạc bởi một nghệ sĩ Tây Tạng hoặc Nepal, những người vốn thân thuộc với hình thức này, mà là một người phương Tây, người có nhẽ có thiên hướng đồng đẳng nam nữ và có thể không muốn mô tả một người nữ nhỏ hơn nhiều so với vị Phật. Song đây chỉ là quan điểm riêng của tôi và có thể không đúng, bởi tôi không chuyên về các phong cách nghệ thuật mà chỉ về hình tượng.

* Đây đơn giản là một loại hình nghệ thuật năng một môn phái Phật giáo?

- Giáo sư Adelheid Herrmann-Pfandt: Phật giáo Kim Cang thừa hoặc Mật tông, như thỉnh thoảng thường được gọi, được xem là một phái thuộc Phật giáo Đại thừa bởi những người khai sinh Ấn Độ cũng như những người thừa kế Tây Tạng. Phật học phương Đông và phương Tây thường biết về ba tuổi trong lịch sử Phật giáo: Phật giáo nguyên thủy (từ tiểu thặng - Hinayana, thường tránh dùng vì nó mang tính chê bai), Đại thừa - Mahayana, và Mật tông. Phật tử Tây Tạng tu tập Đại thừa và Mật tông. Nhiều nhà sư Phật giáo Tây Tạng và sư ni dành nhiều niên học chuyên sâu về kinh văn và luận thuyết Đại thừa trước khi bắt đầu học Kim Cang thừa

Các đại sư Kim Cang thừa Tây Tạng khuyên bạn không nên tu tập Kim Cang thừa trước khi có đủ định tính dành cho nó. Việc gia tăng các năng lượng tính dục trong thân không chỉ để họ không hành động ra ngoài phạm vi như những người luyến ái thường nhật mà để chuyển hóa, kiểm soát và “ý thức hóa” chúng là chuyện khôn xiết mẫn cảm, một số người thậm chí xem nó hiểm nguy, giống như thác nước trong tỉ dụ mà tôi đã nói trên. Nên việc thực hiện đoàn luyện ý thức, phát triển lòng trắc ẩn dưới mọi cảnh huống có thể và ổn định tâm tưởng là điều quan yếu để bắt đầu con đường này.

Với tên gọi “Shington” và “Tendai”, Kim Cang thừa hoặc Mật tông cũng được tu tập ở Nhật, dù người Nhật chưa bao giờ ưng ý hoàn toàn biểu trưng sắc dục và do đó không giới thiệu nó trong hình thức nghệ thuật Phật giáo bí truyền. Dó đó, quả thật bạn có thể nói thuật mô tả yab-yum là một loại hình nghệ thuật, loại hình đặc biệt miêu tả các ý tưởng đạo trong hình thức nghệ thuật.

* Loại hình này có phổ thông ở các nơi khác trên thế giới?

- Giáo sư Adelheid Herrmann-Pfandt: Các hình ảnh yab-yum được dùng bất kỳ nơi đâu có người theo Phật giáo Tây Tạng, ở Tây Tạng và khu vực xung quanh (Nepal, Bhutan, Bắc Ấn Độ, Trung Quốc, Mông Cổ…) hoặc ở phương Tây. Đặc biệt, khi người Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng và khoảng 100.000 người Tây Tạng, gồm cả Đạt Lai Lạt Ma rời khỏi nơi đây như những người lánh nạn và mang môn phái Phật giáo của họ đến bất kỳ nơi đâu họ đặt chân đến. Các cộng đồng Phật giáo Tây Tạng lớn nhỏ được thành lập hầu như ở mọi nước phương Tây dưới sự ảnh hưởng của các đại sư Phật giáo Tây Tạng lưu vong, thậm chí ở những nơi như Brazil hoặc Chile.

Tôi đoán tổng cộng phải có ít ra vài triệu người phương Tây cải sang Phật giáo Tây Tạng. Lý do đẵn của họ không phải là hy vọng có các cuộc xiêu bạt tính dục trong hình thức đặc biệt này mà là, một mặt vì tư tưởng tự do đạo mà nhiều đại sư Tây Tạng đương đầu, và mặt khác, là thời cơ có được cách tập dượt bài bản một trong những con đường ý thức tiến bộ nhất trong lịch sử đạo.

Tôi nói với nhân cách một người không theo đạo Phật, tuy nhiên là người nhận thức được thực tiễn rằng cả hai điều này đã dần biến mất khỏi các giáo hội đạo gia tô ở phương Tây trong một thời kì dài.

Tôi không nên lánh né thực tiễn rằng cũng có một phong trào nhất định của những người ở phương Tây, những người, theo ý kiến của tôi, hiểu nhầm mục đích tôn giáo của Kim Cang thừa và sử dụng nó như cách thực hành tính dục dưới mọi hình thức mà họ khoác lác là “thuộc về tôn giáo”.

Song sự liên hệ giữa chuyện này (mạo danh tôn giáo) với tôn giáo cũng chẳng nhiều nhặn gì hơn sự liên hệ giữa một tiệm mát xa ở khu đèn đỏ tại Đức hoặc Thái Lan hoặc có thể thậm chí là ở cả nước bạn với việc chăm sóc sức khỏe.

Các bài liên quan:

chuyen pha do cong trinh

thu mua phe lieu

Tin xã hội

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét