Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

Nhớ Trần Đức Thông, anh hùng liệt sĩ Trường Sa

Nhân buổi họp mặt tại Đà Nẵng của những cựu binh và thân nhân của các liệt sĩ hy sinh trong trận hải chiến năm 1988 trên hải phận Cô Lin - Len Đao - Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Khampha.vn xin giới thiệu lại bài viết về một liệt sĩ trong trận chiến ác liệt ấy, do nhà báo Lương Thị Bích Ngọc thực hành, đăng trên Bee.net.vn năm 2010.

Chân dung Anh hùng liệt sĩ Trần Đức Thông (1944-1988)
phút chốc bất diệt ở Gạc Ma

"Mỗi lần kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ, gia đình thắp hương lên bàn thờ cha và nhớ về biển. Nhớ cả kỷ niệm, cha đã dạy hai chị em biết bơi từ khi còn rất bé. Nhớ ánh mắt lúc chia tay về lại Trường Sa lần chung cuộc năm ấy. Mỗi lần nghe bài hát "Không xa đâu Trường Sa ơi, nước mắt em lại rưng rưng...",chị Trần Thị Thu Hà, con gái cả của anh hùng liệt sĩ (AHLS) Trần Đức Thông tâm sự.

Con trai, con gái và ba cháu nội ngoại của anh Thông hiện sinh sống tại Tổ 7, Phường Hai Bà Trưng, TP. Phủ Lý, Hà Nam.

Thư gửi sau ngày... hi sinh

Năm 1988, khi Trung tá Hải quân Trần Văn Thông vĩnh viễn ở lại với biển khơi, Hà 17 tuổi và em trai 14. Hà kể lại, Tết chung cuộc trước lúc hi sinh, cha được ở nhà ăn Tết với ba mẹ con.

Hồi đó, lính đảo mười tám tháng mới được về phép một lần. Tàu xe đi lại khó khăn. Có nghĩa là hơn một tháng phép của Trung tá Trần Văn Thông lại mất đi gần chục ngày cho việc di chuyển từ Trường Sa về Hà Nam và ngược lại.

Mới mồng 2 Tết năm 1988, Trung tá Thông còn nửa tháng nữa mới hết phép thì nhận được điện của đơn vị lệnh vào Nha Trang gấp.

"Cha phải lên ga Nam Định (chứ không phải là ga Phủ Lý gần nhà) trước cả tuần để đăng ký vé tàu vào Nha Trang. Trước lúc đi, cha còn tranh thủ gánh nước đổ đầy vào bể rồi nói vui: Hôm nay tôi gánh kỷ niệm cho con gái tôi một bể nước".

29/2/1988, dương lịch, Trần Đức Thông chia tay vợ và hai con lên tàu hỏa ở ga Nam Định đi Nha Trang. 2/3/1988, lên tàu ra đảo. Và ngày 14/3/1988, ông hi sinh.

Chân dung Anh hùng liệt sĩ Trần Đức Thông (1944-1988). Ảnh gia đình cung cấp

"Cả nhà không hề linh cảm về sự hi sinh của cha vì thời bình rồi... Cha em nhập ngũ năm 1962, ở chiến trường miền Nam suốt. Liên tục ở chiến trường Quảng Trị năm 1972, bị thương hai lần, tưởng chết, rồi ông lại trở về...".

Hà kể, gia đình vẫn nhận được thư của cha gửi về mà ở dòngngày... thángcủa người viết có độ trễ so với 14/3/1988 cả tháng. Hóa ra, trước lúc lên tàu, Trần Đức Thông đã viết sẵn một tập thư đề ngày cách quãng và dặn liên lạc:"Cứ năm ngày gửi về nhà một bức...".

Vài ngày sau ngày 14/3/1943, mẹ đi đâu có việc, Hà và em trai nghe chương trình của Quân đội Nhân dân lúc 21 giờ. bỗng nghe nhắc tới:"Đồng chí Trần Đức Thông đứng ở boong tàu kêu gọi đàm phán. Bên kia cứ xả súng vào... Bị thương nặng nhưng đồng chí vẫn không rời vị trí cho đến lúc hi sinh".Mẹ vừa vào nhà, hai chị em cất đài đi nhưng mẹ cứ hỏi...

Đến 23 giờ đêm, đài phát lại chương trình đó. Hai chị em ôm nhau khóc.

Đến 0 giờ, mẹ mở đài nghe chương trình "Dành cho đồng bào xa Tổ quốc", bản tin trên được phát lại. Cả ba mẹ con khóc òa lên.

Mấy ngày sau thì có báo tử.

"Dù một tấc đất, chúng tôi quyết không lùi"

Về trường hợp hi sinh của AHLS Trần Đức Thông, cuốn sáchAnh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Anh hùng lao động thuộc Quân chủng Hải quân (1955-2005),NXB Quân đội nhân dân ghi lại như sau:

"Sau khi Tổ quốc thống nhất, đồng chí Trần Đức Thông xác định nhiệm vụ, gắn bó với Quân đội. Học xong chương trình trung cấp ở Trường sĩ quan Phòng không, đồng chí về nhận công tác ở đơn vị bảo vệ đảo Trường Sa...

Trong cuộc chiến đấu chống lấn chiếm các đảo, ở vùng biển của ta vào tháng 3 năm 1988 của hải quân xâm lược, đồng chí Trần Đức Thông đã tỏ ra bản lĩnh vững vàng, quyết tâm cao trong việc chỉ huy bộ đội giữ vững chủ quyền của ta trên các đảo. Đầu tháng 3 năm 1988, Trần Đức Thông đang nghỉ phép thì có điện gọi về đơn vị. Đồng chí đã chỉ huy một lực lượng ra đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao (thuộc cụm đảo Sinh Tồn).

16 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 3, tới vị trí, Trần Đức Thông tổ chức lực lượng đi khảo sát, xác định vị trí cắm cờ, làm nhà. 4 giờ sáng ngày 14 tháng 3, đồng chí chỉ huy bộ đội bốc dỡ vật liệu từ tàu HQ 604 xuống đảo Gạc Ma, lúc này tàu địch đang bao vây, uy hiếp, dùng xuồng máy đổ quân lên đảo hòng nhổ cờ của ta và chiếm đảo.

Chị Hà thắp nét hương kính viếng hương hồn cha, mong sao sớm đem được hài cốt cha trở về đất liền an táng. Ảnh gia đình cung cấp

Đồng chí Trần Đức Thông đã cho điện bẩm về chỉ huy, và xác định quyết tâm:"Dù địch vây ép, một tấc đất, chúng tôi quyết không lùi".Trần Đức Thông lệnh cho bộ đội trên tàu xuống đảo hỗ trợ lực lượng bảo vệ cờ, và đấu tranh với địch. Đồng thời nhắc nhở bộ đội, hãy bình tĩnh, không được nổ súng khi chưa có lệnh, để tránh sự khiêu khích của địch.

Trên đảo đã xảy ra đụng độ giữa ta và địch, tàu địch vòng giãn ra xa và dùng pháo bắn nhiều loạt vào tàu HQ 604. Tàu ta trúng đạn, nước tràn vào và chìm nhanh. Đồng chí Trần Đức Thông bị thương nặng vào đầu, nhưng vẫn ở mũi tàu chỉ huy bộ đội, cho đến lúc hy sinh. Đồng chí Trần Đức Thông đã nêu cao tinh thần can đảm chiến đấu, kiên quyết cùng bộ đội đấu tranh giữ vững chủ quyền của Tổ quốc trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa...

Ngày 13 tháng 12 năm 1989, đồng chí Trần Đức Thông được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân...".(trang 186-189).

Đại diện cho cơ quan của con trai đến thắp hương cho anh nhân ngày 27/7. Ảnh gia đình cung cấp

"Thương mẹ nhiều lắm!"

Dịp 27/7 năm 2010, AHLS Trần Đức Thông đã có cháu nội hơn một tháng. (Như vậy là anh đã có ba cháu cả nội và ngoại). Giờ đây, cả Hà và Nam đều đã có công việc ổn định.

Hiện Hà công tác tại Phòng hậu cần - Công an tỉnh Hà Nam, còn Nam làm việc tại Trạm kinh doanh và chế biến than Phủ Lý - Công ty cổ phần kinh doanh than miền Bắc.

Nhưng người vợ tảo tần của ông - bà Nguyễn Thị đã mất năm 2005 khi mới 58 tuổi.

Hà nói rằng, khi lớn lên, có gia đình rồi, cô mới hiểu mẹ đã hi sinh vì sự nghiệp của cha như thế nào. Lấy nhau năm 1971, chồng hi sinh năm 1988. Cả thời chiến và thời bình, Trần Đức Thông luôn ở vị trí trực chiến. Thời gian cha mẹ Hà gần nhau cộng lại chỉ được một năm. Bà tần tảo nuôi con một mình, không một lời than phiền.

Lương hồi đó thì thấp, con cái lớn rồi mà cả nhà vẫn ở phòng tập thể nhỏ của Công ty than. Ngôi nhà hiện tại nguyên là một cái ao của một gia đình liệt sĩ nhận Trần Đức Thông là con nuôi cho."Mỗi lần về phép, cả mấy cha con lại đội đất, lấp ao cho đầy lên. Năm 1985, ba năm trước lúc mất, trong lần về phép, cha mẹ làm được cái nhà cấp 4 này".

Những gì mà AHLS Trần Đức Thông để lại cho hai con giờ đây chỉ có những kỷ vật tinh thần câu chuyện về người cha anh dũng trong chiến đấu, thanh bạch và thương trong đời thường.


Tại trường PTCS Minh Hòa - quê hương, cũng thành lập Liên đội mang tên anh hùng Trần Đức Thông. Và một nhà tưởng niệm ông được khánh thành năm 2009.

Con trai, con gái của ông từng đi tìm cha giữa biển khơi và nói chuyện với cha qua tâm tưởng.

Cùng với các đồng đội hi sinh ngày 14/3/1988, di cốt của AHLS Trần Đức Thông hiện đang được biển khơi mênh mông bao bọc.

Nhân ngày 27/7 năm 2012, chúng tôi viết bài này thay nén nhang tri ân với các liệt sĩ đã hi sinh để biểu lộ mong muốn giữ trọn vẹn giang sơn của Tổ Quốc Việt Nam!

Nhà thơ Trần Đăng Khoa:“Không có hình ảnh nào lãng mạn như hình ảnh người lính hải quân trước sóng gió”

Biển mênh mông nước nhưng lại không có nổi một giọt nước ngọt nuôi sống người lính. Biển rất kỳ vĩ, nhưng không thể chở che. Lính bộ binh có cây lá ngụy trang, có đất làm chiến hảo, làm những căn hầm che chở. Nhưng lính biển chẳng có nơi nào ẩn nấp khi có địch đến. Che chở cho mình lại chính là lòng anh dũng của chính mình thôi.

... Không có hình ảnh nào lãng mạn như hình ảnh người lính hải quân trước sóng gió. Nhưng cũng không có hình ảnh nào dữ dội như sự hi sinh của người lính trên biển. Người ta nói chết thì “mồ yên mả đẹp” nhưng với lính biển thì không. Không có cả mộ. Và ngay cả khi đã chết rồi, dù chỉ còn mảnh xương tàn, thì mảnh xương ấy cũng vẫn phải đấu vật lộn với sóng gió, bão táp.

... Sự hi sinh của người lính trên biển đa dạng lắm, và tôi đã chứng kiến nhiều sự hi sinh thực sự ám ảnh. Bệnh tật. Sóng gió. Rồi những trận đánh giáp lá cà, không nổ súng. Và hoàn toàn im lặng. Chỉ có trời biết. Biển biết. Và người hy sinh biết mà thôi. Rồi cả những cái chết rất vu vơ.

Ngoài khơi ngay cả ngày biển lặng, vẫn có sóng ngầm húc vào vách đảo và cuộn lên thành sóng bạc đầu ngay ở mép san hô. Người bị lật xuồng có thể bị sóng cuốn, hoặc sóng dồi quật vào đá san hô. Có một kỹ sư thủy sản hy sinh như thế. Sau rất nhiều ngày, vẫn chưa tìm được xác...

Tất nhiên, hồi ấy (hồi Trần Đăng Khoa còn ở đảo) yên bình hơn bây chừ. Yên bình nhưng vẫn có tranh chấp. Nhưng là tranh chấp hòa bình. Ví dụ, đảo của ta, ta đang giữ, vậy mà bọn người nhái vẫn lẻn vào rồi bí mật chôn mốc chủ quyền của họ. Rất vớ vẩn và khó chịu...

(Trích trò chuyện“Một chút tri âm với Trần Đăng Khoa: Biển một bên và em một bên”của nhà báo Lương Thị Bích Ngọc và nhà thơ Trần Đăng Khoa, thực hiện tháng 7/2011).

Các bài liên quan:

chuyên phá dỡ công trình

thu mua phe lieu nhom nhua

Tin xã hội

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét